Parifolia Thông Thường

Mục lục:

Video: Parifolia Thông Thường

Video: Parifolia Thông Thường
Video: Lacebark elm (Ulmus parvifolia) - Plant Identification 2024, Có thể
Parifolia Thông Thường
Parifolia Thông Thường
Anonim
Image
Image

Parifolia thông thường được bao gồm trong số các loài thực vật của họ được gọi là parifolia, trong tiếng Latinh tên của loài thực vật này sẽ phát âm như sau: Zygophyllum fabago L. Còn về tên của chính họ parifolia, trong tiếng Latinh sẽ như sau: Zygophyllaceae R. Br.

Mô tả của parifolia thông thường

Lá xanh thông thường là loại cây thảo sống lâu năm, phân nhánh và sẽ phú cho các nhánh lan rộng. Chiều cao của các nhánh như vậy, lần lượt, sẽ dao động trong khoảng ba mươi đến tám mươi cm. Các lá của loài cây này được ghép đôi và đối nhau, và ở phần trên cùng của chúng sẽ được phú cho một quá trình nhỏ. Loại cây này chỉ có hai lá, chúng sẽ không bằng nhau, có nhiều thịt và hình trứng thuôn dài. Các hạt của hoa parifolia thông thường có màu xanh lá cây, chúng xẹp xuống và chiều dài của chúng từ 4 đến 10 mm. Những bông hoa của loài cây này được sơn với tông màu trắng và có những cánh hoa màu cam. Chỉ có một số lá đài nhỏ, chúng sẽ rụng xuống, tràng hoa của lá chung được sơn tông màu trắng và có viền giữa màu cam. Về chiều dài, các cánh hoa của loài cây này sẽ gần bằng với các lá đài, có hình trứng và chiều dài của chúng là 5 đến 8 mm. Chỉ có mười nhị hoa của loài cây này và chúng có màu cam. Quả của lá thông thường là một hộp hình trụ, hình tròn, hình trụ tròn, rủ xuống, chiều dài khoảng 2-4 mm. Hạt của loại cây này có màu xám vàng và hình dẹt.

Sự nở của lá xanh thường xảy ra vào nửa đầu mùa hè. Trong điều kiện tự nhiên, loài cây này được tìm thấy trên lãnh thổ Trung Á, Moldova, Crimea, cũng như các vùng sau đây thuộc phần châu Âu của Nga: các vùng Nizhne-Don, Prichernomorsk và Nizhne-Volzhsky. Đối với sự phát triển, loài thực vật này ưa thích các bờ hồ chứa, cát đồi, đầm lầy muối, đất mùn bị tắc nghẽn, đất hoang và ốc đảo.

Mô tả dược tính của lá vông thường

Lá vông thường được ban tặng những dược tính rất quý, trong khi để làm thuốc người ta nên sử dụng rễ, chồi và cỏ của loài cây này. Cỏ bao gồm lá, thân và hoa. Rễ nên được thu hoạch vào mùa thu và mùa xuân, trong khi nụ được thu hoạch vào tháng năm.

Sự hiện diện của những dược tính quý giá như vậy được khuyến cáo là do hàm lượng của ancaloit trong thành phần của loại cây này, trong khi rễ có chứa cacbonhydrat, ancaloit, saponin triterpene và tannin. Thân rễ của lá xanh thông thường có chứa alkaloid zygofabagin, trong khi cỏ cũng sẽ chứa saponin, catechin, triterpenoids và flavonoid.

Cây parifolia thông thường được ưu đãi với tác dụng chống viêm, chữa lành vết thương, sát trùng và trị giun sán rất quý giá. Còn về y học cổ truyền, ở đây loại cây này cũng được trồng khá rộng rãi. Y học cổ truyền khuyến cáo sử dụng lá rong để chữa bệnh thấp khớp, các bệnh ngoài da và bệnh bàng quang, đồng thời cũng được sử dụng như một chất nhuận tràng, kháng khuẩn và tẩy giun sán.

Thuốc sắc được chế biến trên cơ sở rễ của cây này nên được sử dụng cho các vết thương, và thuốc mỡ trên mỡ cừu được sử dụng như một chất chữa lành vết thương. Lá được sử dụng như một chất làm lành vết thương, tẩy giun sán và giải độc.

Đề xuất: