2024 Tác giả: Gavin MacAdam | [email protected]. Sửa đổi lần cuối: 2023-12-16 13:46
Angelica daurian là một trong những loài thực vật thuộc họ Umbelliferae, trong tiếng Latinh tên của loài cây này sẽ phát âm như sau: Angelica dahurica. Đối với tên của chính họ bạch chỉ Dahurian, trong tiếng Latinh nó sẽ như thế này: Apiaceae Lindl.
Mô tả của Angelica daurian
Cây bạch chỉ Dahurian là một loại thảo mộc sống lâu năm, được ưu đãi bởi rễ có độ dày 2 cm rưỡi. Thân của loại cây này tròn và mềm, thường được sơn với tông màu tím. Bên trong, thân cây như vậy sẽ rỗng, và nó cũng có thành mỏng và có rãnh mỏng; dưới chùm hoa, phần lớn thân cây thường mọc sớm ở lóng đầu tiên. Chiều cao của thân cây này sẽ dao động trong khoảng 80 cm đến một trăm năm mươi cm. Các lá phía dưới có cuống lá dài, ở gốc nở ra thành bẹ phình to. Các lá có thể có cả hai và ba lông chim, chiều dài của chúng từ ba mươi đến năm mươi cm, và chiều rộng khoảng 25 đến bốn mươi cm. Các lá phía trên không cuống và nhẵn; chúng nằm trên một bẹ to và sưng to. Cụm hoa dạng ô, có hai mươi đến bốn mươi tia dậy thì. Quả bạch chỉ Dahurian được trang bị với các đường gân ở lưng và rìa dày.
Cây này nở hoa vào tháng Bảy. Trong điều kiện tự nhiên, cây bạch chỉ có thể được tìm thấy ở các vùng Primorye và Amur của Viễn Đông, cũng như các vùng Daursky và Leno-Kolymsky của Đông Siberia. Về sự phân bố chung, loài cây này được tìm thấy trên bán đảo Triều Tiên, ở Nhật Bản, Trung Quốc và Mãn Châu. Để sinh trưởng, cây bạch chỉ Dahurian thích ở trên bờ hồ, sông và suối, cũng như những bụi cây ven biển, đồng cỏ và ven rừng.
Mô tả các đặc tính chữa bệnh của cây bạch chỉ
Dahurian angelica được ban tặng với những đặc tính chữa bệnh rất quý giá, trong khi người ta khuyến khích sử dụng rễ của loài cây này cho mục đích y học. Rễ nên được thu hoạch vào mùa thu hoặc vào mùa xuân.
Loại cây này được ưu đãi với tác dụng chữa lành vết thương, giảm đau, chống viêm, cầm máu, chống co thắt, diaphoretic, trị giun sán và lợi tiểu. Ngoài ra cây còn có hoạt tính kháng u.
Đối với y học cổ truyền, ở đây người ta dùng nước sắc và truyền rễ của cây này làm thuốc cầm máu chữa đái ra máu, trĩ và các chứng chảy máu khác, cũng như chữa nhức đầu, đau răng, đau dây thần kinh, bệnh ngoài da và một số bệnh phụ nữ, kể cả ngừng kinh..
Đối với cảm lạnh, bạn nên sử dụng bài thuốc khá hiệu quả dựa trên cây bạch chỉ: để chế biến, bạn cần lấy 6 gam rễ của loại cây này cho vào một cốc nước sôi. Hỗn hợp thu được nên được đun sôi trong nồi cách thủy từ 20 đến 30 phút, sau đó hỗn hợp được ngâm trong một giờ và lọc, và nước đun sôi được thêm vào đến thể tích ban đầu. Thực hiện một phương thuốc như vậy một phần ba ly ba đến bốn lần một ngày. Để đạt được hiệu quả cao hơn, bạn nên tuân theo tất cả các quy tắc để chuẩn bị một sản phẩm như vậy.
Đối với bệnh mụn nhọt, nên sử dụng phương thuốc sau: để chuẩn bị, lấy 8 gam rễ cây này nghiền nát trong nửa lít nước, sau đó cho vào bình kín trong hai giờ và lọc. Thực hiện phương thuốc này một phần ba ly ba lần một ngày.
Khi bị cảm, bạn cũng có thể hấp hai mươi gam rễ cây bạch chỉ Dahurian, sau đó chia hỗn hợp này thành hai phần và uống hai lần.
Đề xuất:
Angelica Officinalis
Angelica officinalis là một trong những loài thực vật thuộc họ Umbelliferae, trong tiếng Latinh tên của loài cây này sẽ phát âm như sau: Archangelica officinalis L. Còn về tên của chính họ bạch chỉ, trong tiếng Latinh sẽ như thế này: Apiaceae Lindl.
Daurian Cnidium
Daurian cnidium là một trong những loại cây thuộc họ Umbelliferae, trong tiếng Latinh tên của loài cây này sẽ phát âm như sau: Cnidium dahuricum (Jacq.) Turcz. ex Fisch. et C. A. Có thể. Về tên gọi của chính họ Daurian cnidium, theo tiếng Latinh sẽ là:
Đỗ Quyên Daurian
Đỗ quyên Daurian là một trong những loài thực vật thuộc họ thạch thảo, trong tiếng Latinh tên của loài cây này sẽ phát âm như sau: Rhododendron dahuricum L. Còn về tên gọi của chính họ đỗ quyên Daurian, trong tiếng Latinh sẽ là: Ericaceae Juss.
Hawthorn Daurian
Hawthorn daurian (lat.Crataegus dahurica) - một đại diện của chi Hawthorn thuộc họ Hồng. Khu vực tự nhiên - Viễn Đông, Đông Nam Siberia, Mông Cổ và Hoa Bắc. Các vị trí điển hình là bờ sông, ven rừng, sườn núi, đồng cỏ ngập nước và rừng rậm hỗn tạp và rừng rụng lá.