Thuốc Mua

Mục lục:

Video: Thuốc Mua

Video: Thuốc Mua
Video: #341. Mười loại thuốc mua không cần toa BS nên có trong nhà mùa Covid-19 2024, Tháng tư
Thuốc Mua
Thuốc Mua
Anonim
Image
Image

Thuốc mua là một trong những loại cây thuộc họ hoa môi có tên khoa học là liliaceae, trong tiếng Latinh tên của loại cây này sẽ phát âm như sau: Polygonatum officinale All. Về tên của chính họ dược liệu, trong tiếng Latinh nó sẽ như thế này: Liliaceae Juss.

Mô tả thuốc đã mua

Kupena dược còn được gọi dưới những cái tên phổ biến sau: táo sói, berry sói, mắt sói, quạ, mắt quạ, cỏ sói, cẩu tích, bắp cải thỏ, hoa loa kèn điếc của thung lũng, hải cẩu, vết máu, hellebore rừng và mắt chim ác là. Kupena officinalis là một loại thảo mộc lâu năm, có thân rễ dày. Thân của loại cây này sẽ có khía cạnh và có xương, và ở phần ngọn nó được uốn cong hình vòng cung. Chiều dài của một thân cây như vậy sẽ là khoảng ba mươi đến sáu mươi cm, các lá của cây này sẽ xen kẽ, chúng hướng về một hướng. Về hình dạng, lá của cây thuốc sẽ có hình trứng hoặc hình bầu dục thuôn dài, chúng cũng dạng ôm lấy thân, trần. Từ trên cao, những chiếc lá như vậy được sơn với tông màu xanh lá cây, và từ bên dưới chúng sẽ được sơn với tông màu xanh xám. Hoa của loài cây này có màu trắng, chúng rủ xuống và có bao hoa sáu răng đơn giản. Những bông hoa được mua làm thuốc như vậy sẽ nằm với số lượng một hoặc hai chiếc ở các góc của lá. Quả của loại cây này là một quả mọng hình cầu được sơn với tông màu xanh đen.

Sự nở hoa của cây thuốc rơi vào khoảng thời gian từ tháng 5-6. Trong điều kiện tự nhiên, loài cây này được tìm thấy trên lãnh thổ Ukraine, Belarus, một phần châu Âu của Nga, Tây và Đông Siberia. Đối với sự phát triển, loài thực vật này thích những nơi trong rừng cây bụi, rừng lá kim, rụng lá và lá kim rụng lá.

Mô tả dược tính của thuốc

Cây thuốc Cupena được ban tặng với các đặc tính chữa bệnh rất có giá trị, trong khi người ta khuyến khích sử dụng thân rễ và cỏ của cây này cho mục đích chữa bệnh. Cỏ bao gồm lá, hoa và thân. Nên thu hái cây mua làm thuốc trong khoảng thời gian từ tháng 5 đến tháng 6, còn thân rễ thì thu hái vào cuối mùa thu.

Trong thân rễ của cây thuốc có chứa tinh bột, alcaloid, một lượng lớn chất nhầy, đường fructose, arabinose, glucose và acid ascorbic. Trong tất cả các bộ phận của cây này, và đặc biệt là trong quả của nó, người ta sẽ tìm thấy các glycoside tim sau: độc tố độc, độc tố độc và long mạch. Lá của loại cây này chứa một lượng rất lớn vitamin C, flavonoid, glycosid vitexin và costiin, cũng như các chất khác.

Đối với y học cổ truyền, ở đây việc mua bán dược liệu đã trở nên khá phổ biến. Loại cây này được khuyên dùng để chữa cảm lạnh, trĩ, thấp khớp, cảm lạnh, đái tháo đường, cổ chướng, phù nề có nguồn gốc khác nhau, thoát vị và đau lưng. Ngoài ra, dược liệu còn được dùng làm thuốc chỉ thống, cầm máu, long đờm, tiêu viêm, giảm nôn, làm mềm và lọc máu. Điều đáng chú ý là lá tươi của cây này dùng ngoài bôi lên vết thương, còn lá đun sôi có thể dùng làm thuốc đắp cho các vết bầm tím khác nhau.

Nước sắc và cồn từ thân rễ của cây này nên được dùng chữa viêm phổi, viêm phế quản, bệnh tim, nhức đầu, loét dạ dày tá tràng, viêm khớp, bệnh gút, hoại tử xương và viêm đường hô hấp.

Đề xuất: